mị và a phủ
Nhớ đến tình cảnh của bản thân, Mị đã đồng cảm sâu sắc với nỗi cô đơn và tuyệt vọng của A Phủ. Từ mối đồng cảm với A Phủ, Mị càng hiểu sâu sắc hơn cuộc sống đọa đầy của hiện tại cũng như cảm nhận đến tận cùng sự độc ác của cha con thống lí
Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: "A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất". Này là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy ẩn chứa biết bao cảm tình và làm quặn đau con tim độc giả. Đó chính là lý do - hệ lụy của việc Mị
Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy khiến Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống
Hơn nữa những tháng ngày bị đày đọa, bị hành hạ đến mức "quen khổ", Mị dần trở nên vô cảm với nỗi đau của người khác. Vậy nên, sự dửng dưng của Mị trước hoàn cảnh của A Phủ chính là một nét xuất thân trong nghệ thuật miêu tả tâm lý của Tô Hoài
MỊ là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩm. II. THÂN BÀI A. TÂM TRẠNG VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA MỊ TRONG ĐÊM CỨU A PHỦ - Từ vô cảm đến đồng cảm: những đêm trước nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm.
Đề bài: Dựa vào hai nhân vật A Phủ, Mị phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm mà nhà văn Tô Hoài muốn gửi đến bạn đọc.. Mở bài: Giới thiệu về tác phẩm qua hai hình tượng nhân vật Mị và A Phủ "Vợ chồng A Phủ" là truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập " Truyện Tây Bắc" của Tô Hoài - Tác
glosifalom1980. Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài gồm dàn ý chi tiết kèm theo 3 bài văn mẫu hay, được THPT Nguyễn Đình Chiểu tổng hợp từ bài làm hay nhất của học sinh trên cả nước. Hành động Mị chạy theo A Phủ Hành động Mị chạy theo A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ là hành động đi tìm hạnh phúc, tìm tự do. Vậy dưới đây là 3 bài văn mẫu phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ, mời các thầy cô và các bạn cùng tham đang xem Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ 1. Mở bài Giới thiệu vấn đề cần phân tích 2. Thân bài a. Khởi đầu cho hành động liều lĩnh của Mị là xuất phát từ số phận đau thương Mị là một người con gái xinh đẹp, biết thổi sáo, thổi sáo rất hay, lại được nhiều trai làng ngấp nghé và Mị cũng có riêng cho mình một tình yêu đẹp đẽ. Mị bị ép trở thành con dâu gán nợ, thực tế là trở thành một nô lệ suốt đời làm lụng và phục dịch cho nhà thống lý. Ban đầu Mị thấy đau khổ quá, Mị đã nhiều lần muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi cho đỡ khổ. Thế nhưng cuối cùng vì chữ “hiếu” vì thương cha, sợ mình chết rồi thì người ta lại bắt tội cha, Mị đành quay về sống tại căn nhà lạnh lẽo, ác độc ấy như một cái xác không hồn. Mị làm lụng quanh năm suốt tháng, đầu óc không nghĩ gì ngoài chuyện đi làm. Đày đọa về mặt tinh thần khi Mị phải sống với người mình không yêu, Mị hoàn toàn mất hết quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. => Cuộc đời của Mị chính là một bản án chung thân không hồi kết. b. Một sự chuyển biến, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị khởi đầu cho sự tự giải thoát khi chạy theo A Phủ Tiếng sáo gọi bạn tình mùa xuân réo rắt, vui nhộn quẩn quanh đã khơi gợi lại trong lòng Mị biết bao nhiêu kỷ niệm, khiến lòng Mị sống lại những xúc cảm ham sống, ham hạnh phúc. Đỉnh điểm của sự ý thức và sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị được bộc lộ khi Mị ý thức một cách mạnh mẽ rằng ” Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”. A Sử về trói Mị vào cột nhà, Mị nghĩ về chuyện đã từng có một người đàn bà trong nhà này bị trói cho đến chết. => Điều đó cho thấy một cách rõ ràng rằng Mị vẫn còn yêu cuộc đời này lắm, vẫn còn những khao khát được sống, được hạnh phúc, được tự do. c. Giải thoát cho A Phủ và tự giải thoát cho bản thân Tận mắt chứng kiến giọt nước cay đắng, xót xa của một người đàn ông “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ, Mị thấy căm giận, phẫn nộ trước sự bất công và độc ác của đám người nhà thống lý Pá Tra, thấy thương xót và đồng cảm cho cuộc đời của A Phủ. Mị lại quyết tâm giải cứu A Phủ, mở cho anh một con đường mới. Sau khi thấy người đàn ông trước mặt dù đã sức cùng lực kiệt, khuỵu xuống vì đói rét, nhưng vẫn gắng gượng đứng dậy, dùng hết sức bình sinh sinh chạy, lăn xuống dưới sườn đồi để mưu cầu sự sống. => Trong lòng Mị ý thức được rằng Mị đã giải thoát được cho người khác thì cớ sao không thể tự giải thoát cho mình, và thế là Mị không còn do dự gì nữa, chạy lao theo A Phủ. – Câu nói “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất” vừa là lời giải thích với A Phủ, vừa là những ý thức sâu sắc của Mị về cuộc đời đầy bế tắc và đen tối ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ cả sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự vùng dậy mạnh mẽ của nhân vật này để đi theo tiếng gọi của tự do, của hạnh phúc. – Hành động bỏ trốn của Mị Kéo Mị ra khỏi ách thống trị đàn áp tàn ác của cường quyền và thần quyền phong kiến. Trở thành động lực, tấm gương cho nhiều những người phụ nữ có chung số phận với Mị ở Hồng Ngài nói riêng và vùng núi phía Bắc nói riêng. Chứng minh được rằng sự đàn áp của cường quyền và thần quyền không bao giờ có thể giam cầm được những con người có tâm hồn khao khát tự do, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. 3. Kết bài Cảm nhận chung về ý nghĩa hành động Mị chạy theo A Phủ Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ – Mẫu 1 Trong các tác giả văn học Việt Nam, Tô Hoài được nhớ tới như một bậc thầy lão luyện, kho tàng văn học ông để lại đã gắn bó với bao lớp thế hệ, từ dế mèn phiêu lưu kí, đế vợ chồng A Phủ. Nói đến truyện ngắn vợ chồng A Phủ, ta không thể không nghĩ ngay đến nhân vật Mị. Cô gái đã thắp sáng lên ngọn lửa hi vọng cho mọi cô gái chịu áp bức ở Tây Bắc nước ta thời bấy giờ. Mị là hiện thân cho tấm lòng nhân đạo, và ngòi bút hết sức bén nhạy của Tô Hoài. Ông vốn là một người ưa tìm hiểu những phong tục tập quán, nên có cái nhìn rất rõ về hoàn cảnh số phận, những khó khăn mà người phụ nữ miền núi phải gánh chịu lúc bấy giờ. Tô Hoài nhắc đến Mị, đầu tiên với những vẻ đẹp phẩm chất của cô, mà vẻ đẹp ấy đẹp lắm, trong sáng thuần khiết và thanh cao lắm, quý như một viên ngọc giữa núi rừng và không gì có thể làm viên ngọc ấy bị mài mòn và ngừng tỏa sáng. Tuy nhiên, hoàn cảnh của Mị lại trớ trêu, vì đúng là “hồng nhan bạc mệnh”. Mẹ mất sớm, Mị ở với cha, và ở trong một gia đình mà có truyền kiếp nợ thống lí. Nhưng Mị lại là một cô gái đẹp và tài năng, mị không những biết thổi sáo mà còn là cô gái khiến các chàng trai trong bản “đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” không những thế Mị còn là một cô gái vô cùng hiếu thảo và ngoan ngoãn, Mị có thể chịu khổ cực vất vả để trả nợ thay cha, chứ nhất quyết không bán rẻ lòng tự trọng và chịu gò ép trong hoàn cảnh là con dâu nhà giàu. Mị hiện lên đầu truyện với những đức tính cao quý mà một cô gái như vậy, xứng đáng có được cuộc sống như mình hằng ao ước. Nhưng, đời không cho Mị tự do, dù Mị có muốn trốn chạy như thế nào đi chăng nữa. Hôm ấy, Mị bị A Sử bắt về cúng trình ma làm con dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra, và kể từ đó, cuộc sống tâm hồn và thể xác Mị bị đọa đày khổ cực. Nhưng, với tấm lòng cảm thương sâu sắc, Tô Hoài đã để cho bản chất của Mị được hiện lên, những khát vọng, ước ao một thời lại trỗi dậy mạnh mẽ. Trong đêm tình mùa xuân, hồi ức của một thời được sống với chính mình, với những gì mình ao ước trỗi dậy trong Mị. Mị “cứ uống ừng ực từng bát” rượu, rồi lại thấy “phơi phới trở lại” Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ, nhận ra mình với A Sử đến với nhau chẳng vì tình. Mị muốn vui chơi, Mị muốn được sống và Mị khát khao sống. Nhưng, ngay hôm đó, khi ngọn lửa tâm hồn Mị vừa trỗi dậy thì A Sử đã trói chặt Mị vào cột nhà, đầy đau đớn và thương tâm, Mị không khóc được, không cựa quậy được, và Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Ngày A Phủ bị giải đến nhà thống lí, và lần đầu tiên gặp A Phủ, Mị vẫn còn cái tâm trạng khá thờ ơ. Bởi trong lòng Mị vốn đã chết, nên cuộc sống với Mị cũng chỉ là sự lặp đi lặp lại của thời gian và của sự tồn tại mà thôi. Nhưng, hôm ấy lại khác, “Mị lé mắt trông sang” chợt thấy một giọt nước mắt đắng cay, tủi hờn từ A Phủ. Giọt nước mắt lóng lánh ấy đã nhắc lại cho Mị nhớ thời gian Mị bị thằng A Sử trói đứng đầy nhẫn tâm, tàn ác. “Chúng nó thật độc ác” Mị nhận ra một sự thật mà bấy lâu nay ẩn chứa từ sâu trái tim đã nguội lạnh của mình. “chết đau, chết đói, chết rét” Mị cảm thương cho A Phủ bằng chính sự cảm thương Mị có ngày trước, trái tim tiềm tàng của Mị được thức tỉnh nhanh chóng. Và dứt khoát, Mị cắt dây trói và nói “đi ngay”.. Và hành động trói dây buộc A Phủ cùng việc ngay sau đó Mị chạy theo A Phủ vào bóng tối, cũng là điều tất yếu của một con người đã bị dồn nén đến mức cùng cực. sức sống mạnh mẽ được trỗi dậy, và đã kết thúc quãng thời gian đầy ải, tối tăm mà Mị đã phải chịu trong nhà thống lí Pá Tra, hành trình đi theo A Phủ cũng chính là một hành trình tìm đến sự sống mới của Mị, và những hi vọng dù là trong bóng tối, Mị cũng đã không còn gì để mất, để phải sợ nữa.. Mị là nhân vật số phận, và nhờ số phận hành động của Mị đã kể cho ta nghe về một ngòi bút đầy nhân đạo, và một trái tim đầy cảm thông của Tô Hoài. Nhà Văn đã góp một tiếng nói chung vào dòng chảy của văn học dân tộc, để ca ngợi những phẩm chất cao quý của người phụ nữ, và khẳng định niềm tin tưởng, hi vọng vào cuộc sống luôn hướng về cái đẹp, cái thiện. Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ – Mẫu 2 “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được trích từ tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tập truyện đã được tặng giải Nhất, giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 – 1955. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn hay viết về một sự đổi đời kì diệu. Xoay quanh hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, Tô Hoài đã khắc họa hai chặng đường hoàn toàn đối lập. Chặng đường đầu tiên là những ngày ở Hồng Ngài, Mị và Phủ – hai con người xinh tươi, giỏi giang phải cam cảnh nô lệ ê chề. Chặng đường thứ hai là ở Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã vùng lên từ bóng đêm của cường quyền, thần quyền để đến với ánh sáng của tự do. Sự kiện đánh dấu bước chuyển biến giữa hai chặng đường chính là hành động Mị cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ. Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời mình. Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính trước khi làm dâu và sau khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Mị cũng có tình yêu như bao người, cũng được bao kẻ say mê, theo đuổi “con trai đến đứng nhẵn cả vách đầu giường nhà Mị”. Tô Hoài đã miêu tả tài năng thổi sáo của Mị như sau “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người say mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Đứng trước món nợ của bố, Mị nhận lấy trách nhiệm của người con, thà là vất vả lao động “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” còn hơn phải trở thành con dâu gạt nợ “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Thế nhưng số phận bi kịch đã không nhún nhường và buông tha cho Mị. Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát. Trước món nợ truyền kiếp và sự áp chế của thần quyền – Mị nghĩ rằng đã cúng “trình ma” thì mình chỉ còn biết làm thân trâu ngựa cho đến ngày chết rũ xương ở đấy mà thôi – Mị hoàn toàn tê liệt về thể xác lẫn tinh thần “Mỗi ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Vì thế, mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên hình ảnh bi thương cùng quẫn của kiếp người “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước suối dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, từ một, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi. Trước khi trở thành con ở nhà thống lý, A Phủ tuy có xuất thân bất hành “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc” nhưng vẫn là chàng trai yêu đời và có nhiều phẩm chất tốt đẹp. A Phủ là chàng trai tự do của núi rừng, yêu lao động, tự do, giỏi giang “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”. A Phủ còn là niềm khát khao của bao cô gái trong làng “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Vì tội đánh con quan – A Sử mà A Phủ từ đứa con của núi rừng trở thành kẻ nô lệ với bản án chung thân “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Hai con người tươi trẻ giờ trở thành hai kẻ cùng khổ, số phận họ bị quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lý Pá Tra. Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Quá khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhóm nhận thức bên trong Mị để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều. Một cuộc vượt ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày. Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”… Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc đời mới, là con đường mới. Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát vọng tự do, đến với ánh sáng cách mạng. Có thể nói đây là giá trị nhân đạo mới mẻ trong ngòi bút Tô Hoài nói riêng và ngòi bút các nhà văn sau cách mạng nói chung. Lí tưởng thời đại đã thay đổi, con người đã tìm ra lối thoát tinh thần của mình. Nếu như trước cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch thì sau cách mạng, họ đến được với sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái kết của nhân vật Chí Phèo hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái kết của Mị, của A Phủ. Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, vượt qua nỗi sợ đã gặm nhấm thể xác và tinh thần, Mị đã chạy theo A Phủ. Bước chân của Mị là bước chân đạp đổ hiện thực “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Cuối cùng, cô Mị sau bao năm vô cảm, lùi lũi, trơ trơ cũng đã đối diện với nỗi sợ của mình. Nàng đã hồi sinh trở lại từ sự chết dần chết mòn những ngày tháng qua. Nàng đã vùng lên đấu tranh, ngọn lửa sức sống âm thầm nhưng mạnh mẽ, kết tinh thành hành động táo bạo, dứt khoát. Chính dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen lại kia đã đem đến sự hồi sinh cho Mị – một sự hồi sinh kì diệu. Thế là từ đây, Mị kết thúc cuộc đời cuộc đời con dâu gạt nợ, A Phủ kết thúc kiếp nô lệ tôi đòi. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa – vùng đất hứa hẹn niềm tin, tự do và hạnh phúc. Hành động Mị chạy theo A Phủ đã khép lại những tháng ngày quẩn quanh, bế tắc của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Tô Hoài bằng tài năng của mình đã xây dựng tác phẩm thành công trên nhiều phương diện đề tài, kết cấu, nhân vật. Do đó, “Vợ chồng A Phủ” trở thành một tác phẩm tiêu biểu viết về sự trỗi dậy của thân phận con người, cụ thể ở đây là người dân vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến. Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ – Mẫu 3 Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một trong những tác phẩm nổi bật của nền văn học hiện thực nước ta những năm kháng chiến chống Pháp, khi viết về đề tài người phụ nữ dân tộc miền núi và số phận bất hạnh của họ, cũng như những vẻ đẹp tâm hồn tiềm tàng đáng quý, đáng trân trọng. Có thể thấy rõ rằng văn của Tô Hoài không nhằm mục đích chính là phản ánh hiện thực mà chủ yếu là để ca ngợi những vẻ đẹp của con người ở tầng lớp tận cùng đáy của xã hội, chịu sự áp bức của cường quyền và thần quyền phong kiến. Thế nên nhân vật của ông luôn có những sự chuyển biến cảm xúc, tâm trạng tinh tế, cùng những bước ngoặt rất “đắt” thể hiện sự vùng lên mạnh mẽ để tự giải thoát bản thân khỏi số phận đớn đau, mà có lẽ ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là cảnh Mị chạy theo A Phủ trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra. Nói về hành động bỏ trốn của Mị, nếu như không xét đến một hoàn cảnh nào khác thì đó là một sự kiện xấu xa, trắc nết, bởi lẽ trong phong tục truyền thống của các dân tộc miền núi, hay trong nề nếp gia phong của dân tộc Việt Nam, người ta vẫn đề cao sự chung thủy, kiên trinh của người đàn bà. Mị đã cúng trình mà nhà thống lý Pá Tra, thì đã là người của nhà ấy, là vợ của A Sử, chết cũng phải là ma của ngôi nhà này, không thể đổi khác. Thế nhưng khi xét đến toàn bộ câu chuyện, ta lại mới nhận ra hành động bỏ trốn của Mị dường như là một điều tất yếu, là sự kiện nhất định phải xảy ra sau một loạt các chuỗi biến cố trong cuộc đời bất hạnh của Mị. Mị là một người con gái xinh đẹp, biết thổi sáo, thổi sáo rất hay, lại được nhiều trai làng để ý và Mị cũng có riêng cho mình một tình yêu đẹp đẽ, có lẽ sẽ đơm thành trái nếu không có món nợ truyền kiếp của cha Mị. Thêm vào đó Mị cũng là người con gái chăm chỉ, chịu khó, Mị sẵn sàng lên nương trồng bắp, trồng sắn để trả nợ thay cha, chứ không muốn gả vào làm dâu nhà giàu có. Điều đó thể hiện được tấm lòng hiếu thảo, không tham phú phụ bần của Mị, và đáng lý rằng một người con gái như vậy phải đáng được hưởng một cuộc đời ấm êm, dẫu không giàu sang nhưng hạnh phúc, tự do. Thế nhưng sức mạnh của cường quyền và thần quyền phong kiến đã không cho phép điều đó xảy ra, A Sử đã dùng vũ lực để bắt Mị về cúng trình ma, ép Mị trở thành con dâu gán nợ, thực tế là trở thành một nô lệ suốt đời làm lụng và phục dịch cho nhà nó. Ban đầu Mị thấy đau khổ quá, Mị đã nhiều lần muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi cho đỡ khổ, Mị chạy về khóc xin cha,… thế nhưng cuối cùng vì chữ “hiếu” vì thương cha, sợ mình chết rồi thì người ta lại bắt tội cha, Mị đành quay về sống tại căn nhà lạnh lẽo, ác độc ấy như một cái xác không hồn. Bao nhiêu niềm vui sướng, hạnh phúc của tuổi trẻ dường như đã tàn lụi và nguội lạnh như một nắm tro tàn trong tâm hồn của người đàn bà tội nghiệp. Mị làm lụng quanh năm suốt tháng, đầu óc không nghĩ gì ngoài chuyện đi làm, Mị quên cả cách giao tiếp nói chuyện, khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, đầu cúi xuống, sống lầm lũi như một con rùa trong xó cửa. Khổ sở đến độ Mị còn ý thức một cách đau đớn tột cùng rằng “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Không chỉ khổ sở về mặt thể xác mà cuộc đời của Mị còn là những đày đọa về mặt tinh thần, Mị phải sống với người mình không yêu, phải từ bỏ mối tình dang dở của mình, không còn được thổi sáo, thổi lá, chơi xuân cùng chị em như khi còn ở nhà. Mị hoàn toàn mất hết quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, căn buồng Mị ở chẳng khác nào một cái nhà tù khi mà chỉ có một ô cửa bé bằng bàn tay “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Và cuộc đời của Mị chính là một bản án chung thân không hồi kết, Mị sống trong cảnh đau khổ tột cùng ấy sao có thể không chai lì, tuyệt vọng và chết lặng cho được. Một sự chuyển biến, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị khởi đầu cho sự tự giải thoát khi chạy theo A Phủ ấy là nhờ vào âm thanh của sự sống Tiếng sáo gọi bạn tình mùa xuân réo rắt, vui nhộn quẩn quanh. Nó đã khơi gợi lại trong lòng Mị biết bao nhiêu kỷ niệm, khiến lòng Mị sống lại những xúc cảm ham sống, ham hạnh phúc, Mị nhẩm hát theo tiếng sáo, rồi Mị cũng học theo người ta uống rượu, uống ừng ực từng bát. Đỉnh điểm của sự ý thức và sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị được bộc lộ khi Mị ý thức một cách mạnh mẽ rằng”Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”. Mị vào buồng mặc váy hoa, vấn lại tóc định đi chơi, thì A Sử về nó trói Mị vào cột nhà, ngay lúc này đây lòng Mị vẫn bay theo những tiếng sáo ngoài đường, rồi khi trở lại thực tại, Mị nghĩ về chuyện đã từng có một người đàn bà trong nhà này bị trói cho đến chết. Một kể vốn trước đây đã không còn thiết tha chuyện chết hay sống gì vậy mà giờ đây lại thấy sợ hãi, “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau từng mảnh thịt”. Điều đó cho thấy một cách rõ ràng rằng Mị vẫn còn yêu cuộc đời này lắm, vẫn còn những khao khát được sống, được hạnh phúc, được tự do, Mị không muốn chết vào lúc này, đời Mị còn dài lắm, dù rằng Mị cũng chưa nghĩ ra được giải pháp giải thoát cho bản thân. Đến khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng giữa sân vì làm mất một con bò và có thể phải đền mạng vì con bò ấy, Mị thoạt đầu tỏ ra chẳng quan tâm, bởi lẽ Mị lo cho thân mình còn chưa xong, nói gì đến những kẻ khác. Thế nhưng khi tận mắt chứng kiến giọt nước cay đắng, xót xa của một người đàn ông “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ, lòng Mị đã có những biến đổi lớn. Mị thấy căm giận, phẫn nộ trước sự bất công và độc ác của đám người nhà thống lý Pá Tra, thấy thương xót và đồng cảm cho cuộc đời vừa mới bắt đầu của A Phủ mà nay lại sắp phải chấm dứt chỉ vì cái sự nghèo đói và cách biệt tầng lớp. Từ một người phụ nữ yếu đuối, ấy vậy mà Mị lại quyết tâm giải cứu A Phủ, mở cho anh một con đường mới. Ban đầu có lẽ Mị đã định rằng mình dù gì có chết cũng phải là ma của nhà này, thế nên cô quyết định hy sinh để cắt dây trói cho A Phủ, còn bản thân ở lại chịu tội. Tuy nhiên, sau khi thấy người đàn ông trước mặt dù đã sức cùng lực kiệt, khuỵu xuống vì đói rét, nhưng vẫn gắng gượng đứng dậy, dùng hết sức bình sinh sinh chạy, lăn xuống dưới sườn đồi để mưu cầu sự sống. Trong lòng Mị bỗng nhiên vỡ ra một cái gì đó, phải rồi Mị đã giải thoát được cho người khác thì cớ sao không thể tự giải thoát cho mình, và thế là Mị không còn do dự gì nữa, chạy lao theo A Phủ. Câu nói “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất” vừa là lời giải thích với A Phủ, vừa là những ý thức sâu sắc của Mị về cuộc đời đầy bế tắc và đen tối ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ cả sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự vùng dậy mạnh mẽ của nhân vật này để đi theo tiếng gọi của tự do, của hạnh phúc, mong muốn khao khát được làm lại một cuộc đời mới, một cuộc đời do chính bản thân mình định đoạt làm chủ. Hành động bỏ trốn của Mị, đã kéo Mị ra khỏi ách thống trị đàn áp tàn ác của cường quyền và thần quyền phong kiến, trở thành động lực, tấm gương cho nhiều những người phụ nữ có chung số phận với Mị ở Hồng Ngài nói riêng và vùng núi phía Bắc nói riêng. Cũng lại chứng minh được rằng sự đàn áp của cường quyền và thần quyền không bao giờ có thể giam cầm được những con người có tâm hồn khao khát tự do, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, mà chỉ có thể giam cầm được thể xác của họ mà thôi. Hành động của chạy theo A Phủ của Mị là một hành động mang tính bước ngoặt lớn, minh chứng rằng một con người chỉ cần có tấm lòng khao khát tự do, sự vùng dậy mạnh mẽ, sức sống tiềm tàng mãnh liệt thì họ có thể tự giải thoát cho mình bất cứ lúc nào. Đánh dấu một bước chuyển biến mới trong tư duy của những con người ở miền núi, cường quyền và thần quyền phong kiến đã đến ngày tận thế, suy tàn, không còn phù hợp trong thời đại mới, không còn đủ sức để đàn áp con người thấp cổ bé họng nữa. Mà có thể một mai đây chính nó sẽ bị những con người này lật đổ, để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn công bằng hơn. Đăng bởi THPT Nguyễn Đình Chiểu Chuyên mục Tài Liệu Lớp 12
Tổng hợp kiến thức cơ bản bài vợ chồng A Phủ do Đọc Tài Liệu thực hiện bao gồm toàn bộ kiến thức cơ bản bài Vợ chồng A Phủ, từ tác giả, tác phẩm tới nội dung, nghệ thuật,... kèm theo đó là những bài văn mẫu hay nhất phân tích, bình giảng, cảm nhận bài thơ và các khổ thơ. Mời các em học sinh cùng tham khảoTóm tắt kiến thức Vợ chồng A Phủ -Tô HoàiI. Kiến thức chung1. Tác giả Tô Hoài– Nguyễn Sen 1920. Quê nội ở Thanh Oai- Hà Đông. Viết văn từ trước Cách mạng – sáng tác với nhiều thể loại Số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền v ăn học Việt Nam hiện đại. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú về các phong tục tập quán, văn hóa của các vùng miền trên đất nước.– Một số tác phẩm tiêu biểu Dế Mèn phiêu lưu ký 1941, O chuột 1942, Truyện Tây Bắc 1953…2. Tác phẩm– Hoàn cảnh sáng tác Trong chuyến đi thực tế dài 8 tháng cùng bộ đội và giải phóng Tây Bắc.– “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc“- Giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955.>> Xem lại kiến thức về tác giả, tác phẩm Soạn bài Vợ chồng A PhủII. Kiến thức cơ bản1. Nhân vật Mị* Lai lịch – xuất thân Là một người nông dân bình thường. Mị vốn là cô gái xinh đẹp, hiếu thảo, có lòng tự trọng và có tài “thổi lá hay như thổi sáo” và được nhiều trai làng theo. * Cuộc đời làm dâu gạt nợ– Thời gian “Đã mấy năm”, nhưng “từ năm nào cô không nhớ …” => không còn ý thức về thời gian, không còn ý thức về cuộc đời làm dâu gạt nợ.– Không gian tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa…khe suối…+ Căn buồng kín mít Không gian hẹp, cố định, quen thuộc, tăm tối, gợi cuộc đời tù hãm, bế tắc, luẩn quẩn…– Hành động, dáng vẻ bên ngoài+ Cúi mặt, buồn rười rượi, đêm nào cũng khóc …+ Trốn về nhà, định tự tử …+ Cúi mặt, không nghĩ ngợi … vùi vào làm việc cả ngày và đêm.– Suy nghĩ Tưởng mình là con trâu, con ngựa nghĩ rằng “mình sẽ ngồi trong cá lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi…”.+ Ngày Tết chẳng buồn đi chơi…=> Nghệ thuật miêu tả sinh động, cách giới thiệu khéo léo, hấp dẫn, nghệ thuật tả thực, tương phản giữa nhà thống lý giàu có với cô con dâu luôn cúi mặtkhông gian căn guồng chật hẹp với không gian thoáng rộng bên ngoài.=> Cuộc đời làm dâu gạt nợ là cuộc đời tôi tớ. Mị sông tăm tối, nhẫn nhục trong nỗi khổ vật chất thể xác, tinh thần…không hy vọng có sự đổi thay.* Sức sống tiềm tàng– Thời con gái Vốn là một cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo, có nhiều người say mê – có tình yêu đẹp.– Khi xuân về+ Nghe – nhẩm thầm-hát.+ Lén uống rượu-lòng sống về ngày trước.+ Thấy phơi phới – đột nhiên vui sướng.+ Muốn đi chơi nhắc 3 lần.=> Khát vọng sống trỗi dậy– Bị A Sử trói đứng+ Như không biết mình bị trói.+ Vẫn nghe tiếng sáo …+ Vùng đi – sợ chết.=> Khát vọng sống vô cùng mãnh cởi trói cho A Phủ+ Lúc đầu vô cảm ” A Phủ có chết đó cũng thế thôi “.+ Thấy nước mắt của A Phủ thương mình, thương người.=> Mị cởi trói cho A Phủ – giải phóng cho A Phủ là giải phóng cho chính mình.=> Hành động có ý nghĩa quyết định cuộc đời Mị-là kết quả tất yếu của sức sống vốn tiềm tàng trong tâm hồn người phụ nữ tưởng suốt đời cam chịu làm nô lệ.=> Cuộc đời Mị là cuộc đời nô lệ điển hình của người phụ nữ dưới chế độ cũ.>> Tham khảo Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật MịPhân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A PhủPhân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị2. Nhân vật A Phủ* Cuộc đời– Lúc nhỏ Mồ côi, sống lang thang => Bị bắt bán – bỏ trốn.– Lớn lên Biết làm nhiều việc. Khoẻ mạnh, không thể lấy nổi vợ vì nghèo.+ Dám đánh con quan => Bị phạt vạ => làm tôi tớ cho nhà thống lý.+ Bị hổ ăn mất bò => Bị cởi trói, bị bỏ đói…* Sức sống mãnh liệtBị trói Nhay đứt 2 vòng dây mây quật sức vùng chạy => Khát khao sống mãnh liệt.=> Cuộc đời A Phủ cũng là một cuộc đời nô lệ điển hình.>> Xem thêm Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ3. Cảnh xử kiện– Diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt tuôn ra từ các lỗ cửa sổ như khói bếp …– Người đánh, người quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể chửi lại hút. Cứ thế từ trưa đến hết đêm– A Phủ gan góc quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá…– Cảnh cho vay tiền Kỳ quặc…Biểu hiện đậm nét sự tàn ác dã man của bọn thống trị miền núi.=> Hủ tục và pháp luật nằm trọn trong tay bọn chúa đất nên kết quả A Phủ trở thành con ở trừ nợ đời đời kiếp kiếp cho nhà thống lý Pá Tra.=> Cha con thống lý Pá Tra điển hình cho giai cấp thống trị phong kiến miền núi ở Tây Bắc nước ta trước Cách Vài nét nghệ thuật+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí nhân vật sinh động, có cá tính đậm nét Với Mị, tác giả ít miêu tả hành động, dùng thủ pháp lặp lại có chủ ý một số nét chân dung gây ắn tượng sâu đậm, đặc biệt tác giả miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn…Với A Phủ, tác giả chủ yếu khắc hoạ qua hành động, công việc, những đối thoại giản đơn.+ Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề,….+ Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.+ Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn.+ Ngôn ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.>> Cách xây dựng nhân vật Mị trong Vợ chồng A PhủIII. Tổng kếtQua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì huỷ diệt được của kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng Cách mạng soi đường đến một cuộc đời tươi sáng. Đó chính là giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân dạo lớn lao, tiến bộ của Vợ chồng A Phủ. Những giá trị này đã giúp cho Tô Hoài, tác phẩm của Tô Hoài đứng vững trước thử thách của thời gian và được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thêm Sơ đồ tư duy Vợ chồng A PhủNhững dạng đề văn liên hệ với tác phẩm khác thường gặpCảm nhận về hai khoảnh khắc vô tận trong Vợ chồng A Phủ và Vợ NhặtSo sánh nhân vật Tnú rừng xà nu và A Phủ Vợ chồng A phủCảm nhận quá trình thức tỉnh của nhân vật Mị liên hệ với Chí PhèoDàn ý các đề văn liên hệ nhân vật Mị Vợ chồng A Phủ và Liên Hai đứa trẻNhững tài liệu hay về tác phẩm Vợ chồng A PhủMở và kết bài Vợ chồng A Phủ hay nhất được tuyển chọnCác đề văn về nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Tô HoàiTrọn bộ những đề văn hay về Vợ chồng A Phủ điểm cao*********Hy vọng hệ thống kiến thức Vợ chồng A Phủ mà Đọc Tài Liệu đã tổng hợp trên đây sẽ là tài liệu Văn 12 bổ ích giúp các em dễ dàng tiếp thu kiến thức để học tập tốt hơn. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao nhé!
Tài liệu hướng dẫn lập dàn ý phân tích nhân vật A Phủ chi tiết và cụ thể của Đọc Tài Liệu với hệ thống luận điểm, luận cứ, sơ đồ tư duy kèm theo bài văn mẫu hay và chất lượng giúp các em tham dẫn lập dàn ý phân tích nhân vật A Phủ Vợ chồng A Phủ1. Phân tích đề- Kiểu đề dạng đề nghị luận phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học- Vấn đề nghị luận Hình tượng nhân vật A Phủ Các em cần phải nhớ những chi tiết, sự kiện liên quan đến nhân vật và ý nghĩa của nhân vật trong tác phẩm.- Phạm vi dẫn chứng, tư liệu các chi tiết, câu văn, từ ngữ thuộc phạm vi văn bản Vợ chồng A Phủ, mà chủ yếu là nhân vật A Xác lập luận điểm, luận cứ- Luận điểm 1 Hoàn cảnh, xuất thân của A Phủ- Luận điểm 2 Phẩm chất, tính cách tốt đẹp của A Phủ- Luận điểm 3 Số phận bất hạnh- Luận điểm 4 Sức phản kháng mãnh liệt ở A Luận điểm 5 Giác ngộ và đi theo lý tưởng cách Sơ đồ tư duy4. Chi tiết dàn ý phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ* Dàn ý 1 Phân tích nhân vật A Phủa Mở bài- Giới thiệu nhà văn Tô Hoài và truyện ngắn Vợ chồng A Giới thiệu khái quát về nhân vật A Thân bài Phân tích nhân vật A Phủ- Nửa đầu của truyện Vợ chồng A Phủ kể về quãng đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, trong nhà thống lí Pá Tra. Ở phần này, A Phủ là nhân vật phụ, nhưng có tác dụng làm nổi bật hình tượng nhân vật chính là Mị và khắc họa rõ hơn chủ đề tác phẩm. A Phủ là nhân vật được miêu tả sóng đôi với Mị, góp thêm một thân phận người lao động nghèo vào bức tranh hiện thực của tác phẩm.+ A Phủ mồ côi cả cha lẫn mẹ vì nhà bị chết dịch. Có người bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới mười bốn, nhưng A Phủ gan bướng, trốn thoát lên núi, rồi lưu lạc đến Hồng Ngài.+ Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ thành một chàng trai khỏe mạnh "chạy nhanh như ngựa", lao động giỏi, lại"săn bò tót rất thạo". Vì thế, A Phủ trở thành niềm mơ ước của bao cô gái. Họ bảo nhau "Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà".+ Tuy vậy, A Phủ suốt đời làm thuê làm mướn, nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ và cũng không có nổi cả cái vòng bạc để đi chơi ngày Tết như bao chàng trai Hmông khác.+ Chính hoàn cảnh khắc nghiệt này đã góp phần tạo nên ở A Phủ tính cách gan góc, táo bạo và một sức sống mạnh mẽ. Hình ảnh A Phủ khiến người đọc nhớ tới những nhân vật chàng Mồ Côi, chàng Khó tràn đầy sức lực, lao động giỏi và giàu nghĩa khí trong văn học dân Phủ dám đối mặt với bọn con quan một cách thật hùng dũng và đầy tự tin. Anh sẵn sàng trừng trị kẻ đã phá cuộc vui của bạn bè vì thế, A Phủ bị trói mang đến nhà Phá Tra để xử kiện. Cuộc xử kiện quái lạ này thực chất chỉ là một cuộc tra tấn dã man để cuối cùng A Phủ vô cớ phải trở thành người nô lệ gạt nợ cho nhà thống Bằng ngòi bút miêu tả phong tục bậc thầy, Tô Hoài đã làm hiện rõ trước mắt người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần cách áp bức dã man, trắn trợn kiểu trung cổ của bọn thống trị miền núi. Qua "làn khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn ra các lỗ cửa sổ", cứ hút trong một đợt thuốc phiện Pá Tra lại ra lệnh, trai àng lại từng đợt, từng đợt thay nhau lạy tên thống lí lia lịa rồi xông vào đánh A Phủ. Còn người thanh niên khốn khổ này chỉ biết im lặng chịu đòn "suốt chiều, suốt đêm".=> Như vậy, tuy là một chàng trai tự do của núi rừng, A Phủ vẫn không thoát khỏi nanh vuốt của bọn chúa đất. Từ đây, anh bỗng vĩnh viễn trở thành con trâu, con ngựa, như một nô lệ cho nhà Pá Tra. Hơn nữa, cho đến cả đời con, đời cháu, bao giờ trả hết nợ mới thôi. Và nếu không gặp Mị, chắc chắn A Phủ đã phải chết một cách thê thảm tại nhà thống lí.+ Tinh thần phản kháng là cơ sở để sau này, khi gặp A Châu – người cán bộ của Đảng, A Phủ nhanh chóng giác ngộ cách mạng, tham gia du kích, tích cực đấu tranh để giải phóng mình và giải phóng quê Kết bàiCâu chuyện về A Phủ - người nô lệ gạt nợ đã bổ sung cho câu chuyện của Mị - người con dâu gạt nợ, để hoàn thiện bản án về tội ác của bọn chúa đất đối với những người lao động lương thiện ở miền núi trước Cách mạng, đồng thời cũng cho thấy sức sống mãnh liệt của khảo thêm chi tiết dàn ý phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài để cảm nhận vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của Mị và A Phủ - tiêu biểu cho chân dung con người miền núi Tây Bắc thời kì Cách mạng.* Dàn ý 2 Cảm nhận về nhân vật A Phủa Mở bài– Giới thiệu đôi nét về tác giả Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ– Giới thiệu nhân vật A Thân bài* Xuất thân của A Phủ– Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ.– Là con người không bao giờ chùn bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.* Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà Thống lí– Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà thống lí, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.– Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc “đốt rừng, cày nương, cuốc mương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt.– Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời thống lí, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.* Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt– Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”.– Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ”vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.– Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lí. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.* Đánh giá– Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lí thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo, quyết liệt.– Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật.– Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc Số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng.– Người đọc cũng mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ là những con người không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lí thống trong đêm tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lí thống, gặp được ánh sáng của Cách mạng ở cuối đường.» Những bài văn hay phân tích nhân vật A Phủ tuyển chọnc Kết bài- Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính khảo bài văn mẫu phân tích hình tượng nhân vật A PhủVợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một trong những tác phẩm được nhắc đến nhiều trong văn chương. Trong đó, nhà văn đã dùng ngòi bút hiện thực của mình để tái hiện lại cuộc sống khổ cực, lầm than của người dân miền núi dưới tay bọn thống trị tàn nhẫn, độc ác. Nếu như Mị là từng là cô gái trẻ yêu đời, giàu ước mơ thì A Phủ trước khi rơi vào tay thống lí Pá Tra cũng từng là một chàng trai trẻ rất gan dạ giàu lí tưởng sống cao đẹp. Dù cuộc sống của A Phủ cũng chẳng hơn gì Mị, và dù nhà văn không dành nhiều từ ngữ cho A Phủ giống như Mị, nhưng anh vẫn là tâm điểm mà Tô Hoài muốn hướng đến để đại diện cho bao người nông dân cùng chất của A Phủ được thâu tóm qua lời nói của những cô gái trong làng “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. A Phủ không những khỏe mạnh, chịu khó mà còn hiền lành, tốt bụng. Nhưng A Phủ đã không còn bố mẹ, nay ruộng cũng không có, bạc lại càng không, thậm chí A Phủ còn chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác trong ngày Tết đến, A Phủ không thể lấy nổi vợ. Nhưng không phải vì thế mà A Phủ bi quan buồn bã. Ngược lại, anh vẫn vẫn cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. Những câu văn chân thật của Tô Hoài đã cho người đọc có cảm nhận tốt về một chàng trai hiền lành, dễ mến, tuy sống nghèo nhưng luôn lạc quan, yêu đời và không ngừng ước những thế, A Phủ còn rất gan dạ khi dám một mình đứng lên đánh A Sử – con trai của nhà có uy quyền to nhất nơi này. Và đương nhiên, A Phủ bị bắt. Xuyên suốt cuộc xử kiện, bao nhiêu con người nằm đó phè phỡn hút thuốc phiện, còn A Phủ quỳ dưới sàn nhà, chịu những trận đòn liên tiếp. Anh im lặng, mọi người chỉ nghe tiếng đánh huỳnh huỵch mà không nghe thấy tiếng A Phủ kêu nửa lời. Đánh xong, hút thuốc xong, thống lí đưa ra lí lẽ “nhân đạo” tha tội chết cho A Phủ để anh được sống mà nộp vạ. Thống lí “thương tình” cho A Phủ vay một trăm bạc trắng để trang trải cho cuộc xử kiện. Nhưng đó cũng chính là con đường mà A Phủ trở thành nô lệ cho nhà hắn. A Phủ cam chịu và chấp nhận mọi sự sắp đặt của thống lí. Từ đó, bao nhiêu công việc trong nhà, cày ruộng, chăn trâu chăn bò, vào rừng săn hổ… một mình A Phủ bôn ba làm lại một lần nữa, A Phủ rơi vào vòng dây trói của nhà thống lí. A Phủ trong lúc trông bò ngựa vì mải mê bẫy chim đã để hổ bắt mất một con bò. Thống lí bắt A Phủ trói đứng vào một cây cột trong góc nhà bằng dây mây quấn từ đầu đến vai, chờ khi nào bắ được hổ mới tha. Nhưng A Sử và lính dõng của thống lí không lùng bắn được hổ. A Phủ vẫn bị trói. Cuộc đời khổ cực nay lại càng khổ hơn khi ngày này qua ngày khác, A Phủ phải đứng đấy trong sự giam cầm, đánh đập. Lúc này, anh vẫn im lặng. Sự im lặng khiến con người ta phải khâm phục vì sự gan dạ, kiên định của chàng trai miền núi.» Văn mẫu hay phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ chồng A PhủMãi cho tới khi giọt nước mắt của A Phủ rơi xuống, làm lay động trái tim người đọc. Một con người vốn dĩ can đảm và sắt đá, hổ cũng không sợ, mà nay lại phải khóc trong sự giam cầm của những kẻ gian ác, bất nhân. Nhưng Tô Hoài không chỉ rõ lý do vì sao A Phủ lại khóc. Trong đêm tối chỉ có Mị nhìn thấy giọt nước mắt ấy. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. A Phủ khóc cho mình, cho một đời trai trẻ đang tung hoành là thế, nay bị trói đứng, bị chết mòn trong tay những kẻ tiểu nhân, hay khóc cho thân phận của Mị, cho người con gái đang tuổi thanh xuân nhưng cũng phải vùi mình ở nơi đây? Dù khóc vì điều gì đi chăng nữa, những giọt nước mắt của A Phủ cũng chính là tiếng lòng của nhà văn, là sự cảm thương sâu sắc mà ông muốn gửi đến những mảnh đời bất hạnh, những con người cùng cảnh ngộ với A Phủ, với Mị. Họ không bị trói trong nhà thống lí, nhưng sống trong cùng một chế độ, họ cũng đang chết mòn, đang khóc thầm bên bờ vực thẳm của khổ đau và tuyệt vọng. Nhưng may thay, giọt nước mắt của A Phủ đã làm thức tỉnh con người Mị, khiến Mị can đảm đi đến quyết định cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ trốn thoát khỏi nơi này. Họ đã đi đến một miền đất mới, họ trở thành vợ chồng và cùng liên kết, tập hợp mọi người để đứng lên đấu tranh, giải phóng cho đồng bào khỏi nanh vuốt của bọn thống trị tham lam, ác vậy, Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng lên hình tượng nhân vật A Phủ với những đức tính tiêu biểu của người dân miền núi can đảm, gan dạ, yêu đời và giàu lòng nhân ái. Sống cam chịu nhưng không khuất phục, A Phủ đã cùng Mị thoát khỏi vòng dây trói được coi là định mệnh của nhà thống lí Pá Tra – kẻ đại diện cho giai cấp cầm quyền. Họ đã cùng nhau đứng lên, kêu gọi mọi người cùng hợp sức đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự do cho chính mình. Đó cũng chính là lời kêu gọi tha thiết của nhà văn khi xây dựng nên nhân vật A Phủ hiền lành, dễ bài văn hay lớp 12 / Đọc Tài Liệu
Tài liệu hướng dẫn phân tích nhân vật A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm gợi ý cách làm bài, dàn ý chi tiết cùng một số bài văn mẫu hay tham khảo phân tích hình ảnh nhân vật A Phủ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô tham khảo ngay...I. Hướng dẫn phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A PhủTrước khi làm bất kì một đề văn nào nói chung và đề văn phân tích nhân vật A Phủ nói riêng, ta cần phải đọc kỹ đề bài, phân tích, mổ xẻ những yêu cầu về nội dung mà đề bài đặt ra cũng như xác định phương pháp làm bài cho hợp Phân tích yêu cầu đề bài- Yêu cầu về nội dung phân tích vẻ đẹp, tính cách, số phận của nhân vật A Phạm vi tư liệu, dẫn chứng từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong văn bản truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, đặc biệt là những chi tiết liên quan đến nhân vật A Phương pháp lập luận chính phân Tóm tắt nhân vật A Phủ* Số phận đặc biệt- Mồ côi cha mẹ, sống một mình, không người thân thích từ Vượt qua cơ cực thử thách, trở thành chàng trai Mông khỏe mạnh tháo vát, thông minh, nhiều cô gái trong làng mơ ước được lấy A Phủ làm chồng- Nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục cưới xin ngặt nghèo* Cá tính đặc biệt- Mạnh mẽ gan góc từ bé+ Không sợ đối mặt với bọn con quan, dám trừng trị chúng khi chúng quậy phá cuộc vui xuân của đám bạn mình+ A Phủ nắm lấy "cái vòng bạc có tua chỉ xanh của A Sử" kéo dập đầu nó xuống, xé áo nó ra mà đánh+ Bị bắt, bị hành hạ nhưng vẫn không hề lo sợ- Khi trở thành người làm công gạt nợ, A Phủ vẫn là con người tự do, không biết sợ cường quyền, kẻ ác* Nạn nhân của giai cấp thống trị phong kiến miền núi- Vì đánh con quan mà bị phạt vạ rất nặng, trở thành nô lệ trong nhà thống Lí- Chỉ vì lỡ để hổ ăn mất một con bò mà bị cha con thống Lí bắt trói, hành hạ dã man, có thể phải trả giá bằng cả tính mạng.=> Nhân vật A Phủ vừa là bằng chứng sống về tội ác của giai cấp thống trị miền núi Tây Bắc vừa là một hình ảnh đẹp , tiêu biểu của người dân lao động ở một vùng núi cao nước Luận điểm phân tích nhân vật A Phủ- Luận điểm 1 Hoàn cảnh, xuất thân của A Phủ- Luận điểm 2 Phẩm chất, tính cách tốt đẹp của A Phủ- Luận điểm 3 Số phận bất hạnh- Luận điểm 4 Sức phản kháng mãnh liệt ở A Luận điểm 5 Giác ngộ và đi theo lý tưởng cách Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật A Phủ>>> Tổng hợp các mẫu sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ ngắn gọn và dễ hiểu nhất giúp em ghi nhớ nội dung bài tốt Dàn ý chi tiết phân tích nhân vật A Phủ1. Mở bài phân tích A Phủ- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm+ Tô Hoài 1920 - 2014 là một trong những tác gia lớn nhất của thế kỉ 20, thuộc thế hệ vàng của văn chương hiện đại cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Huy Cận.+ Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của Tô Hoài, thể hiện sự cảm thương cho số phận những người lao động nghèo bất hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, bị hành hạ cả thể xác và tinh Giới thiệu nhân vật A Phủ Nhân vật A Phủ được miêu tả sóng đôi với Mị, góp thêm một thân phận người lao động nghèo vào bức tranh hiện thực của tác Thân bài phân tích A Phủ* Luận điểm 1 Hoàn cảnh, xuất thân của A Phủ- Mồ côi cả cha lẫn mẹ vì nhà bị chết dịch, A Phủ bị bắt đem bán đổi lấy thóc của người Mười bốn tuổi thôi nhưng A Phủ đã rất gan bướng, anh đã trốn thoát lên núi rồi lưu lạc đến Hồng Giữa núi rừng, A Phủ dần lớn lên và trở thành một chàng trai khỏe mạnh "chạy nhanh như ngựa", lao động giỏi, "săn bò tót rất thạo" -> Trở thành niềm mơ ước của bao cô gái "Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà".- Suốt đời làm thuê làm mướn, A Phủ nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ, cũng không có nổi cả cái vòng bạc để đi chơi ngày Tết như bao chàng trai H'Mông Hoàn cảnh khắc nghiệt đã góp phần tạo nên ở A Phủ tính cách gan góc, táo bạo và một sức sống mạnh mẽ.=> Hình ảnh A Phủ khiến người đọc nhớ tới những nhân vật chàng Mồ Côi, chàng Khó tràn đầy sức lực, lao động giỏi và giàu nghĩa khí trong văn học dân A Phủ phải làm người ở gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra vì không có tiền trả.=> A Phủ - chàng trai đáng thương, lai lịch cụ thể nhưng mang dáng dấp của nhiều đồng bào dân tộc chịu nhiều khó khăn do đói rét, bệnh tật, nghèo khổ.* Luận điểm 2 Phẩm chất, tính cách tốt đẹp của A Phủ- Khao khát tự do, mạo hiểm+ “Không chịu ở dưới cánh đồng thấp”+ “Trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”- Không chùn bước trước cường quyền, bạo chúa Biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây Một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa”, "nhai đứt võng mây"- Yêu lao động, có trách nhiệm và giỏi trong lao động, không quản ngại những công việc nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm+ Biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc+ Cày giỏi, đi săn bò tót rất bạo+ Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng+ Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng+ Vô ý để mất một con bò -> xin đi giết hổ- Niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi “không có ruộng, không có bạc, không thể lấy nổi vợ” nhưng vẫn đem sáo, khèn, đem con quay, quả pao, quả yến đi tìm người yêu trong những đêm tình mùa Một chàng thanh niên có tinh thần dũng cảm, gan góc săn bò tót, bẫy hổ...- A Phủ là một con người nhân ái, tinh tế+ Hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh của Mị+ Đưa Mị cùng chạy trốn khỏi nhà thống lí-> A Phủ mang nhiều phẩm chất đáng quý của con người lao động, giàu lòng nhân ái và luôn hướng về tương lai tốt đẹp.=> A Phủ chính là hiện thân cho những con người lao động, nhất là những con người lao động nghèo khổ với phẩm chất tốt đẹp.=> Qua đó, tác giả muốn thể hiện niềm tin vào vẻ đẹp của những con người lao động nghèo.* Luận điểm 3 Số phận bất hạnh của A Phủ- A Phủ bỗng nhiên trở thành người ở gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra do dám đánh A Sử vì bất bình trước hành động ngang ngược của hắn. -> Không sợ cường quyền, sẵn sàng trừng trị kẻ A Phủ là nạn nhân của một cuộc xử kiện vô lí+ “cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn phải chịu một trăm bạc trắng” -> quan làng tham lam, nhũng nhiễu, hách dịch, xử kiện bất công, chèn ép dân lành.+ Bị đánh đập dã man, không có tiền trả, phải đi ở trừ nợ.=> Cảnh xử kiện là bức tranh đời sống đặc trưng của miền núi trước Cách mạng, thể hiện tội ác của giai cấp thống Là nạn nhân của cường Là nạn nhân của thần quyền tục cúng ma -> những hủ tục được bọn thống trị lợi dụng để điều khiển và áp bức tinh thần của người dân vô Sống và làm việc như trâu như ngựa+ công việc nguy hiểm, nặng nhọc+ bị đánh trói nhiều ngày vì vô ý làm mất một con bò-> Trở thành người ở gạt nợ cho nhà thống lí, A Phủ chịu số phận nô lệ bất hạnh, mất quyền con người.=> A Phủ là nhân vật điển hình cho số phận chung của những người lao động dưới ách áp bức, thống trị của bọn thực dân, phong kiến và sự ràng buộc của những hủ tục của người dân tộc Mèo.* Luận điểm 4 Sức phản kháng mãnh liệt ở A Bản tính gan góc từ nhỏ+ Cả nhà chết hết vì bệnh dịch+ Làng chết và đói nên người làng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng.+ A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng A Phủ không chịu khuất phục trước thế lực cường quyền+ Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ”vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”.-> Hành động dẫu chỉ là bộc phát nhưng thể hiện được tinh thần dũng cảm của A Khi được Mị cởi trói+ Dù rất đau đớn, “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực vì phải chịu cực hình, bị trói đứng và nhịn đói, nhưng anh vẫn “quật sức vùng lên chạy”+ Cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.=> A Phủ đại diện cho những con người lao động chịu áp bức luôn tiềm tàng sức sống bền bỉ, khát vọng tự do tìm hạnh phúc. Sức sống mãnh liệt ấy không thể bị dập tắt dù trong hoàn cảnh nào hay bởi bất cứ thế lực xấu xa đen tối nào.* Luận điểm 5 Giác ngộ và đi theo lý tưởng cách mạng- Tinh thần phản kháng là cơ sở để khi gặp A Châu - người cán bộ của Đảng, A Phủ nhanh chóng giác ngộ cách mạng, tham gia du kích, tích cực đấu tranh để giải phóng mình và giải phóng quê Quá trình giác ngộ cách mạng của A Phủ đi từ tự phát đến tự giác.=> Qua đó, ta nhận ra khả năng cách mạng tiềm tàng to lớn của đồng bào dân tộc Mèo ở Tây Bắc nói riêng và của nhân dân lao động nói Kết bài phân tích A Phủ- Khái quát giá trị của nhân vật A Phủ Thông qua nhân vật A Phủ, tác giả lên án tố cáo tội ác của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi lúc bấy giờ đã áp bức, bóc lột nhân dân Tây Bắc. Đồng thời phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao Nêu cảm nhận, đánh giá riêng của em về nhân vật cảm thông số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của nhân vật, thấy yêu thương, trân trọng số phận con người.>>> Tham khảo lại nội dung soạn bài Vợ chồng A Phủ để lấy thêm những luận cứ, dẫn chứng chi tiết bổ sung cho dàn ý thêm phong Tuyển chọn những bài văn mẫu hay phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A PhủDưới đây là một số bài văn phân tích nhân vật A Phủ hay được Đọc Tài Liệu tuyển chọn và giới thiệu đến các em tham khảo. Hi vọng sẽ giúp các em hình dung cụ thể cách làm cũng như có thêm vốn từ ngữ phong phú hơn để có một bài văn đạt điểm Phân tích nhân vật A Phủ bài số 1Tác phẩm để đời của nhà văn Tô Hoài và cũng là tác phẩm xuất sắc nhất trong tập "Truyện Tây Bắc" chính là truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ". Trong tác phẩm này, nhà văn đã thể hiện tài năng của mình thông qua cách miêu tả nhân vật A Phủ, tạo nên một điểm nhấn đáng chú ý. Nhà văn đã khéo léo bắt đầu câu chuyện từ thời điểm quan trọng trong cuộc đời của A Phủ, từ đó làm nổi bật tính cách của nhân vật. Trong tác phẩm, tác giả đã chọn hai chi tiết đặc trưng để tạo nên cá tính của A Phủ. Chi tiết thứ nhất là khi A Phủ bị đánh trong cuộc xử kiện "A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá." Chi tiết thứ hai là khi A Phủ được Mị cởi trói "A Phủ quật sức vùng lên chạy." Những chi tiết, hành động ấy đã thể hiện sức mạnh phản kháng của A Phủ và cũng là của người nông nô nghèo miền xuất hiện của A Phủ trong tác phẩm đã tạo ấn tượng mạnh đối với người đọc, đặc biệt là cảnh A Phủ đánh A Sử, con trai thống lí Pá Tra vì hắn dám phá đám chơi của A Phủ và bạn bè. Ban đầu ta nghĩ rằng A Phủ là một nhân vật có quyền thế, nhưng thật ra anh cũng không khác gì Mị, là một nông nô nghèo bị gia đình Pá Tra áp bức, bóc lột sức lao động và trở thành con ở, tôi đòi và nô lệ cho gia đình thống mười tuổi, A Phủ đã phải trải qua tuổi thơ đầy bất hạnh, mồ côi cả cha lẫn mẹ trong đợt dịch bệnh đậu mùa. A Phủ trở thành một đứa trẻ không cha không mẹ, không anh em, tứ cố vô thân, không có bất cứ tài sản gì. Hơn nữa, anh còn bị những người xấu bụng trong làng bán xuống vùng núi thấp chỉ để lấy ít thóc. Tuy nhiên, A Phủ không cam chịu và đã quyết định trốn lên núi cao, lang thang khắp nơi và làm công việc thuê mướn ở Hồng lên, A Phủ trở thành một chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ cày cuốc. Dù đã trải qua những khó khăn và gian truân từ nhỏ, A Phủ vẫn giữ được sự trong sáng, yêu đời, hồn nhiên, yêu cuộc sống và tin vào chính nghĩa. Anh vẫn mang theo sáo và khèn của mình đi khắp nơi, tìm kiếm người phận nghiệt ngã của A Phủ đâu chỉ có như vậy, A Phủ đã trở thành nông nô dưới sự thống trị của gia đình Pá Tra chỉ vì anh dám đánh A Sử, người đã làm hỏng cuộc chơi của A Phủ và bạn bè. Trước khi trở thành một nông nô cho gia đình nhà Pá Tra, A Phủ đã phải tham gia vào một cuộc xử kiện mà không phải lỗi của mình. Anh bị đánh đập dã man, tàn bạo. Khi đã trở thành nông nô cho gia đình thống lí, anh bị bóc lột sức lao động một cách tàn nhẫn ngoài ở ngoài gò và rừng. Đặc biệt, anh phải chịu đựng nỗi đau tinh thần hành hạ khi bị cúng trình ma, phải chịu những lời lăng mạ cay độc từ mọi người và từ cả Pá tin tưởng của Tô Hoài vào giá trị của con người một lần nữa được khẳng định. Sự tin tưởng ấy không chỉ được thể hiện qua nhân vật Mị mà còn được thể hiện qua sức mạnh phản kháng của nhân vật A Phủ. Để thể hiện điều đó, tác giả đã chọn lựa chi tiết trong cuộc xử kiện, khi A Phủ bị bọn trai làng xô đến đánh, "A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá". Nhiều người đọc có thể nghĩ rằng A Phủ nhát gan, nhưng thực tế không phải vậy. Nếu anh ta nhát gan, làm sao dám đánh A Sử, người mang vòng bạc quý trên cổ, một biểu tượng chỉ được phép đeo bởi con cái của gia đình quan trọng trong làng. Ngược lại, hình ảnh "im như tượng đá" chính là một hành động phản kháng, biểu hiện sự không tuân thủ, nén lại sự căm giận trong lòng, không nói ra, không bày tỏ và điều này chính là sức mạnh phản kháng tiềm ẩn bên trong con người A con sóng ngầm ngày một mạnh mẽ bên trong A Phủ được tạo nên bởi chính cá tính gan góc và mạnh mẽ đó của anh. Khi hoàn cảnh trở nên nghiệt ngã và đau khổ, sức phản kháng trong anh lại càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Nó được Tô Hoài thổi bùng lên trong lần miêu tả thứ hai về A Phủ. Sự kiện bắt đầu khi A Phủ vô tình để hổ vồ mất một con bò trong lúc mải săn nhím và đã bị cha con thống lí Pá Tra phát hiện, trói đứng vào cột mà không cho ăn uống. Tuy nhiên, nhờ tình thương và lòng đồng cảm của Mị, cô đã cởi trói và cứu giúp A Phủ. Trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc giữa sự sống và cái chết, một lần nữa tinh thần phản kháng trong A Phủ trỗi dậy và được tài năng của Tô Hoài thể hiện A Phủ bỗng ngã khuỵu xuống, không thể bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, A Phủ lại quật sức vùng lên và chạy. Ban đầu, hành động này có thể chỉ là ý nghĩ chạy trốn khỏi cái chết, nhưng sau đó nó đã trở thành một hành động đến với con đường giải phóng. Từ việc tìm đường đến nhận đường chính là ý thức làm người, tinh thần phản kháng, khát khao sống, khát khao tự do. Điều này trở thành cơ hội tốt để A Phủ hiến dâng cuộc đời mình cho sự nghiệp Cách mạng khi anh trở thành một du thuật miêu tả nhân vật đầy sắc sảo của Tô Hoài đã tạo ra một hình tượng nhân vật A Phủ đầy nam tính. Trong A Phủ, khát vọng tự do và công bằng được biểu hiện một cách âm thầm, mạnh mẽ, hồn nhiên và đơn giản. Tính cách của anh mang đậm phẩm chất tiêu biểu của một người đàn ông chân chính thuộc dân tộc vật A Phủ được miêu tả hai lần và ở hai thời điểm khác nhau đã gây ra ý kiến trái chiều. Có người cho rằng lần miêu tả đầu tiên A Phủ đã cam chịu, chấp nhận số phận, trong khi lần thứ hai mới thể hiện sức mạnh phản kháng thực sự. Quan điểm này không sai, vì thực tế là A Phủ đã để cho họ đánh, bởi vì sức mạnh của A Phủ không thể đối đầu với hàng trăm người mạnh hơn. Đó là sức mạnh áp bức của quyền lực đè nén lên một người nông dân nghèo khổ như A Phủ, người đã quen với khổ đau trong cuộc sống. Dưới chế độ thống trị của nhà thống lí Pá Tra, mọi nơi đều tương tự nhau. Điều đó chính là sự cam chịu của người nông dân miền núi cao, khi chưa có ánh sáng của Đảng, chưa có nhận thức, chưa biết về sự đoàn kết để tạo nên sức mạnh chống lại sự áp chính trong lần miêu tả thứ hai, hành động quật sức chạy của A Phủ không chỉ thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ của anh mà có thể coi là cơ hội để anh tiến gần hơn đến Cách mạng, để nhận thức và trở thành một du kích trong tương lai. Từ đó, chúng ta có thể thấy tài năng và sự hiểu biết sâu sắc về tâm lí con người của Tô Hoài. Ông thực sự là một nhà văn giàu kinh nghiệm khi nhìn thấy hai mặt trái ngược trong con người A Phủ, một con người vừa cam chịu số phận vừa mạnh mẽ, can trường và không chịu khuất phục. Điều này cũng thể hiện niềm tin vững chắc của nhà văn vào tâm hồn, sức sống và sự phản kháng quyết liệt của con người trên con đường tìm kiếm hạnh phúc và bản nghệ thuật miêu tả cuộc đời và tính cách của nhân vật A Phủ, Tô Hoài đã phơi bày sự bất công của giai cấp thống trị đại diện bởi cha con nhà thống lí Pá Tra, họ đã đẩy một con người hiền lành, chất phác như A Phủ vào tình cảnh bị cướp đoạt sức lao động và quyền làm người. Nhà văn đã viết về điều đó với lòng thương cảm đối với sự khổ đau và bất hạnh của họ, đồng tình với sự phản kháng quyết liệt để mở ra một con đường thoát khỏi bất công cho những người lao động nghèo trong miền núi. Như vậy là một lần nữa, tài năng nắm bắt cá tính con người và lòng nhân đạo vô bờ bến của nhà văn Tô Hoài đã được khẳng Phân tích nhân vật A Phủ bài số 2Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con Lan Viên đã thông qua những câu thơ trên để gợi lại cho độc giả hình ảnh một vùng đất Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ và bí ẩn. Nhưng khám phá Tây Bắc không chỉ dừng lại ở những hồn thơ của Chế Lan Viên. Ta đã từng gặp Tô Hoài với một tập truyện riêng viết về phong tục, thiên nhiên và con người Tây Bắc. Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" chính là một trong ba truyện ngắn đáng chú ý nhất của tập truyện Tây Bắc. Thành công của truyện ngắn này là nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, tiêu biểu là nhân vật A Hoài là một nhà văn vĩ đại trong dòng văn xuôi hiện đại của Việt Nam, với một số lượng tác phẩm đạt đến kỷ lục. Hầu hết các tác phẩm của Tô Hoài tập trung vào việc miêu tả sự thật trong cuộc sống hàng ngày với phong cách trần thuật hóm hỉnh, sống động và hấp dẫn. Việc sáng tác của ông thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống, văn hóa và sinh hoạt của người dân Tây Bắc. Trong tập truyện Tây Bắc, truyện "Vợ chồng A Phủ" là thành quả của chuyến đi thực tế của Tô Hoài vào năm 1952 khi ông đến vùng Tây Bắc. Truyện này nhằm phản ánh số phận của những người lao động miền núi Tây Bắc, từ những khổ đau trong cuộc sống đến hy vọng mới của tự trai A Phủ là người H'mông, sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh nghèo khó và bất hạnh. Từ khi còn nhỏ, A Phủ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ và bị người làng bắt bán cho người Thái ở khu vực thấp hơn. Tuy nhiên, A Phủ đã quyết định trốn trở lại vùng cao và sống cuộc sống lưu lạc khắp vùng Hồng Ngài. Đến khi trưởng thành, A Phủ vẫn sống trong đói nghèo, chỉ có đôi bàn tay trắng nên không thể lấy được sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng A Phủ lại có sức khỏe cường tráng, cần cù siêng năng, can đảm và tài ba. Anh biết đốt rừng, làm nương, cày cuốc, chăn bò, chăn ngựa, bẫy hổ, một thân một mình làm việc vất vả quanh năm. Đặc biệt, A Phủ luôn khao khát cuộc sống tự do và phóng khoáng. Ngay từ khi còn bé mới mười tuổi, A Phủ đã không chịu sống cùng người Thái dưới chân núi mà mong muốn trở lại vùng cao, sống một cuộc sống không bị gò bó, tự do như một con chim trong một chàng trai tràn đầy năng lượng, bản tính mạnh mẽ và kiên cường, A Phủ luôn khao khát một cuộc sống tự do, phóng khoáng. Nhưng anh bị giai cấp thống trị tàn ác trói chặt vào kiếp đời nô lệ đau khổ và tủi nhục. Nỗi khổ của A Phủ được tập trung mô tả trong hai cảnh chính là cảnh A Phủ bị phạt vạ vì đánh A Sử và cảnh A Phủ bị trói vì làm mất bò. Sự kiện phạt vạ xảy ra vì A Phủ dám đánh trả con quan chính là A Sử, anh bị bắt về nhà thống lý chịu sự trừng phạt. Phiên tòa đặc biệt tàn bạo và lạ lùng chưa từng có đã diễn ra. Công đường là nhà thống lí, quan tòa lại chính là thống lí Pá Tra. Đông đảo các thành phần tham gia phiên xử với đầy đủ chức sắc trong vùng, trang nghiêm và trọng thể, chỉ quan tâm đến việc hút thuốc phiện và thưởng thức mâm trai làng - những công cụ của thống lý - lại là nhân chứng. Trong khi đó, bị cáo A Phủ không được phép tự bào chữa, không được nghe luận tội mà chỉ im lặng chịu đòn. Phiên tòa diễn ra trong không khí nhốn nháo, náo loạn tiếng kể, tiếng chửi bới, đấm đá và tiếng rít của thuốc phiện, khói thuốc phiện bốc lên từ các cửa sổ. Sau khi kết thúc phiên xử, A Phủ bị buộc phải trả một khoản tiền phạt khổng lồ và phi lý. Ngoài việc trả tiền cho người đã đánh đập anh, anh còn phải trả toàn bộ tiền cho các quan, tiền cho người gọi quan trở về và toàn bộ số tiền đã dùng để mua thuốc phiện từ hôm qua đến hôm sau, thêm một con lợn để làng ăn cỗ. Tổng cộng, số tiền này lên tới một trăm đồng bạc trắng và Pá Tra biết rõ A Phủ không thể trả được số tiền này, vì vậy hắn đã cho A Phủ vay nợ và rồi anh phải làm trâu làm ngựa để trả nợ cho hắn suốt đảm bảo sợi dây trói chắc chắn hơn, Pá Tra gọi con ma về nhận mặt con nợ và toàn bộ số bạc mà A Phủ đã vay lại được hoàn nguyên vào túi của thống lý. Từ khoảnh khắc đó, cuộc sống nô lệ đầy đau khổ và tủi nhục của A Phủ bắt đầu. Anh phải cầm dao đi giết lợn để chuẩn bị làm cỗ cho những kẻ đã đánh đập, chửi bới và phạt vạ anh. Từ một chàng trai mạnh mẽ, dũng cảm và khao khát cuộc sống tự do, A Phủ đã trở thành một người sống kiếp đời như trâu ngựa cùng với đàn trâu và đàn ngựa thuộc sở hữu của nhà thống lý. Qua sự kiện phạt vạ này, nhà văn Tô Hoài đã lên án bản chất tham lam và tàn ác của giai cấp thống trị ở miền núi. Họ đã sử dụng mọi cách thức thâm độc để buộc những người lao động tự do trở thành nô lệ, để lợi dụng và áp bức họ tới cùng vì sơ ý làm mất một con bò của gia đình thống lý mà A Phủ phải chịu một hình phạt thảm khốc. Nỗi khổ nhục của A Phủ bắt đầu từ việc tự tay đào hố để chôn cột, sử dụng sợi dây mây để người khác trói mình. Chính A Sử là người đã thực hiện hành động tàn nhẫn đó, hắn trói đứng A Phủ bằng cuộn dây mây và thòng thêm hai thòng lòng vào cổ, làm cho anh không thể cựa quậy được và bỏ mặc anh trong đau đớn, đói rét cho tới chết, như một sự đền đáp cho mạng sống của con bò thuộc về gia đình thống lý. Qua đó, chúng ta càng hiểu rõ hơn về tội ác dã man và sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi. Họ coi sinh mạng con người không bằng sinh mạng của động vật, và chúng ta càng thấu hiểu thêm nỗi khổ của người lao động khi bị đẩy vào cuộc sống nô lệ. Họ đã bị tước đoạt hoàn toàn quyền sống, quyền con nhận cuộc sống nghèo khó từ khi còn là một cậu bé mười tuổi, A Phủ đã đi ở cho hết nhà này đến nhà khác để được sống tự do. Khi chứng kiến A Sử làm phiền và phá hỏng cuộc chơi của mình, A Phủ đã đánh hắn dù biết rằng hắn là con quan. Trước cảnh xử kiện ác độc của thống lí Pá Tra, A Phủ không khóc, không than van, chỉ quỳ yên như một pho tượng đá để chịu đòn. Trước thế lực cường quyền của ách thống trị, A Phủ bất lực phải chịu đựng, nhưng trong thái độ đó ẩn chứa sự thách thức và phản kháng ngầm. Trong đêm bị trói đứng, chàng trai ấy đã nhay đứt mấy vòng dây mây để tự giải thoát. Chỉ sau khi bị thêm hai vòng thòng lọng vào cổ, A Phủ mới thật sự bất tiết Mị cởi trói cho A Phủ là minh chứng rõ nhất cho sức mạnh của tinh thần phản kháng và lòng khao khát tự do. A Phủ đã ngã quỵ do kiệt sức, nhưng sau đó anh đã vùng lên và chạy thoát khỏi nhà thống lí. Có lẽ khát vọng sống, khát vọng tự do và tinh thần phản kháng trong tâm hồn chàng trai nô lệ ấy đã tạo ra một nguồn sức mạnh vô hạn, khiến A Phủ không chỉ tự cứu mình mà còn giúp Mị trốn thoát khỏi ách thống trị của Pá Tra, để cuối cùng có được tự do và kết thúc cuộc đời nô vật A Phủ đã được Tô Hoài xây dựng với bút pháp điển hình hóa, vừa cụ thể lại vừa khái quát. Cả hai nhân vật A Phủ và Mị đều có những đặc điểm phẩm chất số phận tương đồng, nhưng cách tạo hình nhân vật của nhà văn đã có sự thay đổi và sáng tạo để phù hợp với con người thực tế. Nhân vật A Phủ được khắc họa qua ngôn ngữ và hành động, những biểu hiện, lời nói và hành động ngắn gọn, quyết đoán và mạnh mẽ, điều này phù hợp với tính cách của A Phủ và đồng thời góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác ngắn Vợ chồng A Phủ khép lại với hình ảnh của A Phủ và Mị để lại trong lòng độc giả nhiều suy nghĩ sâu sắc. Nhà văn đã thành công rất lớn khi tái hiện được hình ảnh Mị và A Phủ với sức sống và sức phản kháng mạnh mẽ, bất chấp hoàn cảnh nào. Tác phẩm này sẽ sống mãi cùng thời gian và trở thành người bạn đồng hành với độc giả qua các thế Phân tích nhân vật A Phủ bài số 3"Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách khoa Toàn thư mà không viện sĩ nào, không học giả nào có thể sánh được" Trần Đăng Khoa. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình lay động lòng người. Ông đã viết thành công tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong tác phẩm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác giả cho A Phủ xuất hiện đột ngột trong trận đánh nhau với A Sử - con trai thống lí, rồi bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ phải ở trừ nợ. Sau đó mới kể lai lịch của A Phủ. Cách giới thiệu này vừa gây chú ý cho người đọc vừa nhấn mạnh tính cách mạnh mẽ của A bé, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, không còn người thân thích trên đời, bị người làng bắt đem bán cho người Thái ở vùng thấp. Mới mười tuổi, A Phủ đã gan bướng, không thích ở cánh đồng thấp, trốn lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại giỏi cày và săn bò tót rất bạo”. Con gái trong làng nhiều người mê, họ kháo nhau “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”.Người ta đùa vậy thôi chứ A Phủ nghèo lắm. Không có cha mẹ, không có ruộng nương, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm sao A Phủ lấy nổi vợ. Nếu ở xã hội khác, A Phủ xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Thế mà A Phủ bị chà đạp, bị đối xử bất công. Nếu không được Mị giải thoát, chắc A Phủ đã chết trong tay cha con thống lí Pá tính gan góc của A Phủ đã bộc lộ từ năm 10 tuổi. Cá tính ấy lại được chính cuộc sống hoang dã núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê vất vả cực nhọc hun đúc nên một A Phủ có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Vừa xuất hiện, A Phủ đã lôi cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dự dội “chạy vụt ra”, “vung tay ném”, “xộc tới nắm” “kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…”. A Phủ là một người thẳng thắn, nóng tính, thật thà, chất phác. A Phủ đánh A Sử để trừng trị thói con quan ỷ thế làm càn. Anh bị người nhà thống lí bắt, đánh suốt đêm đến mức “mặt A Phủ sung lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu”, “hai đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù”.Dù vậy, A Phủ “chỉ im như cái tượng đá” thể hiện sự gan góc, dám làm dám chịu. Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, anh vẫn là chàng trai của tự do. Dù phải quanh năm một mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa…”, việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng chẳng hề tính toán thiệt mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ thật thà vác về nửa con bò hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí “cho tôi mượn cây súng. Tôi đi lấy con hổ về”. Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Thống lí không cho, anh cãi lại cũng rất điềm nhiên. Anh không biết sợ cái uy của bất kì ai. Con hổ hay thống lí cũng thế thôi. Kể cả khi lặng lẽ đi lấy cọc và dây mây rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm việc ấy một cách thản nhiên. Là người mạnh mẽ, gan góc, A Phủ không sợ cả cái trói đứng, đói, khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ không cam chịu, anh nhai đứt hai vòng dây trói, song không thoát. A Phủ khóc tuyệt vọng. Nước mắt của chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận nghiệt ngã làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy rõ hơn bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến, chúa đất ở miền núi khi vật A Phủ đã được khắc họa thành công, sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố giúp nhà văn dựng được một hình tượng đặc sắc chỉ bằng mấy nét đơn sơ. Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng đậm Phân tích nhân vật A Phủ bài số 4Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu của tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả "Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Và từ một hình ảnh đó, để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho nhân vật A Phủ và Mị có duyên gặp Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh thật oái oăm. A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này, A Phủ bị bắt về nhà thống lí, bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ, chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ, sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số phận, A Phủ lúc đó mới mười tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé, với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với nó chứ không để nó khiến anh có một số phận trớ sống tiềm tàng của một người đã sớm được bộc lộ, không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật, hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người. A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng, yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí vậy, chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt ở xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ bị người ta khinh thường và một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình, A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. "Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút". Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng núi công việc. A Phủ có thể đốt rừng, cày nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời thống lí, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình. Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ, nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhai đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ để cho Mị đi theo, anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả khi vượt khỏi nhà thống lí, A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm, là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp, không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ - nhân vật điển hình trong truyện. Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.>>> Cùng với phân tích nhân vật A Phủ, các em có thể tham khảo thêm nội dung phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ để rút ra giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm thông qua hai nhân vật đại diện cho những con người lao động miền núi nghèo Phân tích nhân vật A Phủ bài số 5“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa chính là khát vọng, là nghị lực sống mãnh liệt của họ. A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm về sự vượt lên chính mình. Tô Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách, phẩm chất vừa khiến người ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ Hoài đã để cho A Phủ xuất hiện trong lần cọ xát, đánh nhau với A Sử, sau đó bị bắt và bị đánh đập dã man. Tiếp theo đó tác giả ngược dòng kể về hoàn cảnh của A Phủ. A Phủ phải chịu đựng sự cơ cực, vất vả những năm tháng ấu thơ. Trận dịch đậu mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp đi gia đình, bố mẹ, anh chị em. Để lại một mình A Phủ bơ vơ, cù bất cù bơ. Tình cảnh ấy thật khiến người đọc xúc động. Đáng buồn hơn nữa có người đã đem A Phủ đi bán đổi lấy thóc. Nhưng với tính cách gan góc, ngang bướng của A Phủ thì nó không thể trói buộc được anh. A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn từ mùa này sang mùa khác. Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh niên gan dạ, dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau của cuộc đời A khi trưởng thành, A Phủ đã chứng tỏ mình là một người gan góc, liều lĩnh, không chịu khuất phục, luôn chiến đấu với bản thân để vươn đến những điều tốt đẹp nhất “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Chính nghị lực và sức khỏe của A Phủ đã khiến cho nhiều người yêu mến anh. Dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, “A phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Chính điều này đã tạo nên ấn tượng cho nhiều cô A Phủ lại là người không cha không mẹ, không tiền không bạc, không ruộng nương thì lấy vợ là chuyện quá xa xôi. Một người đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc nhưng cuối cùng vẫn cô độc như thế. Có lẽ hình ảnh A Phủ đánh A Sử khiến người đọc vừa dồn dập, vừa thương cảm cho con người này “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Hành động này vừa chứng tỏ A Phủ rất khỏe mạnh, vừa không hề sợ bọn địa chủ phong kiến tàn bạo. Nhưng đây cũng chính là nguyên cớ tạo nên mối thù sâu sắc giữa người nông dân nghèo và tầng lớp địa chủ, quý Phủ đã bị thống lý Pá Tra đánh đập dã man, tàn bạo từ trưa đến đêm. Có thể nói nhà thống lý chính là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hủ tục, sự phân biệt giai cấp nặng nề, coi thường những người nông dân thấp cổ bé họng. Chúng coi A Phủ như một con vật, không hơn không kém. Bộ dạng A Phủ lúc đó thật thảm hại và đáng thương “A Phủ chỉ im lặng như tượng phật”. Sự im lặng đó chính là sự căm phẫn, uất ức đến tột độ nhưng cũng không thể làm điều gì vì hành động đó mà A Phủ đã phải làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lý. Xã hội bấy giờ dường như chỉ tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội mới hả hê, mới yên lòng. Đến đây chúng ta lại liên tưởng đến nhân vậy Mị, có lẽ A Phủ cũng như Mị, sống lay lắt héo hon trong ngôi nhà đầy oán hận đời của A Phủ cũng giống như Mị, từ đây sống hay chết cũng đều phó mặc cho nhà thống lí. A Phủ không có quyền lựa chọn cho mình con đường đi, không được chọn hạnh phúc cho mình. Suốt một đời này phải làm trâu làm ngựa cho nhà thống lí. Một sự thật nghiệt ngã đến đau lòng. Tô Hoài đã khiến người đọc không khỏi xúc động. Bằng ngôn ngữ đặc tả, tác giả đã tạo nên sự riêng biệt của A kịch này nối tiếp bi kịch khác, chỉ vì để hổ vồ mất bò mà thống lí đã bắt trói A Phủ và đánh đập dã man. Sự đau khổ và tuyệt vọng in hằn trong đôi mắt ấy, đôi mắt ám ảnh người đọc đến tận tâm can. Cái chết hiển hiện trong tâm trí A Phủ và A Phủ ý thức rất rõ được điều lẽ chính vì ý thức này đã làm nên sự vượt phá ở cuối tác phẩm khi Mị quyết định cởi trói và bỏ trốn cùng A Phủ. Có lẽ đây là đoạn văn khiến cho người đọc vừa hồi hộp, vừa xót xa vừa khâm phục. Con người ta khi bị bóc lột quá sức sẽ vùng lên đấu tranh để đi tìm con đường riêng. A Phủ thực sự đã làm được. Thoát khỏi nhà thống lí, A Phủ sẽ thành một người công dân có ích cho đất nước, đi theo tiếng gọi của cách Hoài đã rất thành công khi xây dựng nhân vật A Phủ, hình tượng điển hình của người nông dân trong xã hội phong kiến bị áp bức nhưng lại có khát khao sống mãnh Phân tích nhân vật A Phủ bài số 6 Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952. Đây là truyện hay nhất in trong tập "Truyện Tây Bắc'' của nhà văn Tô Hoài 1953 và đạt giải nhất của Hội văn hóa nghệ thuật 1954 - 1955. Nhà văn muốn làm hiển hiện lại cuộc sống của người dân tộc trung thực, chí tình quý trọng tình cảm cho dù gian nan đến đâu cũng mong đợi ngày mai tươi sáng, tiêu biểu là nhân vật A Phủ. Đây là nhân vật được nhà văn xây dựng với hình tượng thật đặc Phủ có số phận đặc biệt vì A Phủ mồ côi cả cha lẫn mẹ, không còn người thân thích, cả làng không mấy ai vượt qua được dịch bệnh đậu mùa anh em, bố mẹ của A Phủ chết. A Phủ đã vượt qua được sự sàng lọc nghiệt ngã của tự nhiên, A Phủ khỏe, sống sót. Có người làng đói bụng đem bắt A Phủ đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. Tuy nhiên, mới mười tuổi nhưng A Phủ rất ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, trốn lên núi cao và lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê lần nữa cho nhà này, nhà khác, vượt qua vô vàn cơ cực, thử A Phủ đã trưởng thành, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, tháo vát, thông minh "Biết đúc lưỡi cày, đục cuốc lại cày giỏi và đi săn bò rất bạo. A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa". Vì vậy con gái có nhiều người con gái mê mẩn, có nhiều người đã nói "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu. "Tuy nhiên người ta cũng chỉ ao ước thế thôi vì A Phủ mồ côi, nghèo, không có ruộng, không có bạc, không có nhà, A Phủ không thể lấy nổi vợ vì A Phủ suốt ngày cày thuê cuốc mướn, tục lệ cưới xin phép rượu cũng to hơn phép văn khắc họa nhân vật thông qua nghệ thuật kể kết hợp với miêu tả sinh động, hấp dẫn được nhìn từ bên ngoài để tạo điểm nhấn về tính cách. Nhà văn đặc biệt chú ý đến những hành động của nhân vật để giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp của A Phủ. Nhà văn đặc biệt tô đậm tính cách gan góc, mạnh mẽ, cá tính ở nhân vật A Phủ, tính cách này bộc lộc từ năm lên mười tuổi với cuộc sống hoang dã của núi rừng và hình ảnh phải làm thuê, cuốc mướn, ở đợ đã hun đúc lên tính cách mạnh mẽ, táo bạo của A Phủ. Tính cách đó có lúc trở thành ngang tàng, sẵn sàng trừng trị kẻ là lúc A Phủ cùng với trai làng đi chơi, A Phủ đã đánh A Sử. Bọn người của nhà thống lí Pá Tra quyền lực bằng trời, không ai dám đụng tới, chúng có quyền muốn làm gì thì làm. Tuy nhiên A Phủ thì không sợ, A Phủ đánh A Sử là đánh kẻ phá đám, đánh kẻ gây sự, đó là hành động dũng cảm thể hiện sự gan dạ, dũng cảm. Nhà văn đã dùng ngôn ngữ kể sinh động, hấp dẫn tái hiện một trận đánh rất sôi động. "một người to lớn…" đánh tới tấp...". Nhà văn đã miêu tả liên tiếp những hành động mạnh, nhanh, táo bạo chạy vụt ra, vung tay, ném, xộc tốc, nắm vòng cổ, kéo dập đầu, xé vai áo, đánh tới tấp… để nhấn mạnh sức mạnh và tính cách của A chính vì hành động đó, A Phủ đã phải trả giá đắt, trở thành thân phận kẻ ở trừ nợ vô cùng cực khổ. A Phủ quanh năm một thân một mình nào là phá nương, cuốc rừng, săn bò tót, bắt bò, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm bôn ba, rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng; đang sức thanh niên A Phủ làm phăng phăng mọi việc, đang mùa đói, do mải mê bẫy nhím, để hổ ăn mất bò, A Phủ thản nhiên vác nửa con bò bị hổ ăn thịt dở về nói với thống lí "Tôi về lấy súng đi bắt con hổ". Đó là tính cách đặc biệt của A Phủ A Phủ cãi lại thống lí cũng rất điềm nhiên, không sợ cái uy của kẻ ác, cái uy của nhà giàu, con hổ hay thống lí thì cũng thế biệt, ngay cả việc A Phủ tự lấy cọc và dây mây, tự mình đóng cọc để người ta trói mình chết thế cho con vật vừa bị mất thì A Phủ cũng làm rất thản nhiên. Đó chính là thể hiện tính cách của A Phủ là một người mạnh mẽ, gan góc, không sợ cả cái chết. A Phủ được Mị cởi trói, đồng cảm, khát vọng tự do, khát vọng sống, đã thôi thúc A Phủ quật sức vùng lên để chạy, thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra. Sau đó A Phủ đến Phiềng Sa được A Chân giác ngộ trở thành đội viên du kích đi theo cách Vợ chồng A Phủ nhà văn viết về cuộc đời đau khổ, tủi cực, nhục nhã của người dân nghèo ở miền núi Tây Bắc. Những người dân nghèo từ Hồng Ngài đến Phiềng Sa, từ cuộc đời nô lệ, áp bức, khổ nhục, cho đến cuộc đời tự do, hạnh phúc, từ cuộc sống tăm tối đến cuộc sống của ánh sáng, niềm vui, từ thân phận trâu bò cho nhà giàu trở thành chiến sĩ du kích chiến đấu giải phóng quê hương, giải phóng cuộc đời mình. A Phủ đại diện cho những con người không chấp nhận sự áp bức, bóc lột đã vùng dậy phản kháng quyết liệt. Đó là quá trình chuyển biến biện chứng, logic từ tự phát đến tự giác dưới ánh sáng của cách khảo thêm một số dạng bài phân tích Vợ chồng A Phủ khácPhân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật MịPhân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuânTrên đây Đọc Tài Liệu đã giới thiệu đến các em mẫu dàn ý và một số bài văn mẫu hay phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Hi vọng bài viết đã mang lại những kiến thức hữu ích cho các em khi bắt tay vào viết bài văn phân tích nhân vật A Phủ. Chúc các em học tốt môn Văn khi tham khảo Văn mẫu 12 tại
mị và a phủ